Phẫu thuật nâng ngực Chiêm Quốc Thái
Mỗi bác sĩ có một phương pháp phẫu thuật khác nhau, bác sĩ Chiêm Quốc Thái cũng có những ưu điểm của riêng mình sau một quá trình lâu dài trong ngành phẫu thuật thẩm mỹ.
Phẫu thuật tạo hình vú sẹo dọc với đường dưới – trong
Giới thiệu
Hiểu rõ nguồn nguồn nuôi dưỡng mạch thần kinh dọc theo dây chằng cho phép duy trì nguồn nuôi dưỡng mạch thần kinh trong quy trình thu nhỏ ngực một cách chính xác hơn.
Kỹ thuật của tôi lấy nguồn nuôi dưỡng mạch máu thần kinh của nó bởi vách ngăn ngang kết hợp với các phần của dây chằng trung gian trong một cuống trung tâm. Cắt bỏ tuyến vú được thực hiện chủ yếu dọc theo sọ mô thưa lỏng lẻo của vách ngăn ngang. Tận dụng lợi thế của sự phân chia sẵn có của vú cho phép thực hiện thủ thuật tiết kiệm máu. Rất có thể làm giảm thiểu nguy cơ tổn thương đối với các mạch và dây thần kinh trong vách ngăn ngang và tính liên tục của các ống dẫn sữa.
Chỉ định
Bất kỳ trường hợp phì đại vú nào cho gigantomastia đều có thể được điều trị thành công bằng cách áp dụng kỹ thuật này. Thu nhỏ và nâng ngực vì lý do thẩm mỹ cũng là một chỉ định tốt. Khi chỉ mong muốn cố định tuyến vú ở những bộ ngực to và săn chắc, tôi cũng khuyên bạn nên giảm nhất định, bởi vì mô yếu rất có thể khiến chứng sa vú tái phát, khi trọng lượng quá lớn kéo nó xuống.
Bất đối xứng vú do bẩm sinh hoặc sau khi điều trị ung thư vú là một chỉ định tốt để chỉnh sửa bằng cách thu nhỏ hoặc cố định vú.
Vì các cấu trúc giải phẫu được chú trọng trong kỹ thuật của tôi, nó cũng có thể được khuyến nghị ở những bệnh nhân phì đại vú vị thành niên. Họ nên được báo rằng ngực có thể tiếp tục phát triển sau khi phẫu thuật thu nhỏ. Trong mọi trường hợp, kỹ thuật này là một chỉ định tốt cho những bệnh nhân lo lắng để gìn giữ độ nhạy cảm của núm vú và khả năng cho con bú của họ.
Giải phẫu
Từ lâu, chúng ta đã quen xem vú như một cơ quan đồng nhất với cấu trúc mạch thần kinh ở vị trí không thể đoán trước được. Vào năm 1998, chúng tôi đã mô tả nó như một bộ máy treo, được gắn vào thành ngực, chủ yếu là theo đường viền của cơ ngực lớn. Hệ thống treo bằng dây chằng này chịu toàn bộ trọng lượng của bầu ngực giống như một chiếc địu. Vách ngăn ngang bắt nguồn từ màng xương của xương sườn thứ năm và hợp nhất ở giữa thành một dây chằng giữa dọc, gắn vào xương ức.
Ở một bên, vách ngăn hợp nhất thành một dây chằng dọc bên, bắt nguồn từ cân ngực ở rìa bên của cơ ngực bé. Các dây chằng này tiếp tục đi vào bao vú theo hướng ra trước. Nó bắt nguồn từ một cấu trúc dây chằng, chèn vào lớp da bao phủ, để tạo nên nếp hõm ở giữa và đường nếp dưới vú. Ở phía bên, nó tạo nên nó tạo nên một đầu dây chằng khá khỏe, ăn sâu vào lớp da của nách, gọi là dây chằng treo của nách, tạo nên hõm nách.
Dây chằng treo vú không chỉ có khả năng định hình quan trọng mà nó còn là cấu trúc dẫn đường cho các dây thần kinh và mạch máu đến núm vú. Tăng sinh từ thành ngực, các mạch máu thần kinh gắn vào dây chằng địu, trong khi di chuyển đến núm vú, nơi chúng hình thành một đám rối dưới da. Nguồn cung cấp mạch máu thần kinh chạy dọc theo hai con đường chính, một nguồn dọc theo vách ngăn ngang cũng như nguồn nông hơn dọc theo các dây chằng dọc hợp nhất vào nang của vú. Một trong hai nguồn này là đủ để nuôi dưỡng cuống mang núm vú hoặc là đường biểu bì bề ngoài qua cuống da hoặc đường nhu mô bao gồm cả vách ngăn ngang. Trong kỹ thuật của tôi, cả hai nguồn đều cấp máu cho mạng thần kinh, tăng tính an toàn cho khu vực này.
Dây chằng treo có thể dễ dàng phát triển bằng cách bóc tách cùn dọc theo khoảng tuyến vú sau theo hướng đuôi. ở ngang mức khoang liên sườn thứ tư, khoang sau tuyến vú đổi hướng để nối tiếp với mặt ngang của các mô kết lỏng lẻo hướng về phía núm vú. mô dày tạo nên sự phân chia hai bên từ trước đó của vú, vì nó chia vú và hệ thống ống dẫn sữa của nó thành một lớp mô đệm và một lớp tuyến đuôi. Nằm dưới mô này có thể thấy vách ngăn ngang.
Định hình phẫu thuật và các dấu hiệu
Chuẩn bị
ở vùng bên và cùng đuôi, bao da bên ngoài vòng tròn quanh hậu cực bị thâm nhiễm với 0,5% xylocaine với epinephrine chỉ trong lớp dưới da. Các vùng bề mặt trước và trung tâm cũng như lớp trung bì giữa trong tương lai không bị thâm nhiễm. Ở những bộ ngực nhỏ, tất cả vòng tròn da thừa quanh núm vú được biểu mô hóa khá sâu, có thể được sử dụng để nâng đỡ hình dạng của tuyến. Ở những bộ ngực lớn, chỉ một phần của vòng tròn da quanh cực là được biểu mô hóa sâu và phần da thừa vùng đuôi có thể được cắt hết độ dày.
Sau đó, phần da còn lại được rạch theo đường tròn ở phía ngoài vi của phần da thừa quanh cực. Ở vùng bên và vùng đuôi, bao da được ngăn cách với tuyến trong một mặt phẳng dưới da mỏng đến thành ngực. Mặt phẳng dưới da này trong hầu hết các trường hợp có thể được tìm thấy dễ dàng bằng cách đẩy nhẹ kéo mở về phía trước song song và cách da khoảng 2cm. Trong khu vực của nếp lằn dưới vú, tôi thận trọng hướng vết cắt ra khỏi cuống.
Ở vùng giữa, tôi giữ một cầu nối trung bì hẹp mà phân cách giữa vòng tròn được biểu mô hóa và bao da, tạo nên cuống trung gian rất di động, cấu trúc này ngăn cuống tuyến khỏi chìm quá thấp và cho phép chỉnh các phần của nguồn cấp máu cho thần kinh dọc theo dây chằng giữa, tăng thêm tính an toàn.
Cắt bỏ
Trên bề mặt, lớp dưới da và các phần trên cùng của ngực được giữ nguyên, sau đó sẽ duy trì độ dày bề mặt.
Sau đó, việc cắt bỏ lớp tế bào tuyến bề mặt còn lại được thực hiện. Lợi thế có được bởi sự phân chia làm đôi có sẵn của vú. ngay khi khoang sau tuyến vú được chạm, nhẹ nhàng, cắt bỏ bằng tay cùn được dùng để lần theo mặt phẳng của mô liên kết quầng vú xuống đến khoang liên sườn 4. Ở đây khoang sau ngực kết thúc và đính vào mô thưa quầng vú, có thể được mở thô bạo bằng tay không theo hướng mặt trước núm vú, luôn ở trên vách ngang. Vì vậy, việc cắt bỏ có thể bằng dao cùn, theo sau lớp trượt dọc theo không gian sau vú, tiếp tục trên đường hướng đến núm vú. Khi nó đến gần núm vú, lớp mô thưa quầng vú có thể ít rõ ràng hơn và có thể cần phải dùng ngón tay bóc ra mạnh một chút để tiếp cận mặt phẳng nằm ngang phía sau núm vú. Ngoài ra, lớp phía đầu và đuôi của các ống dẫn sữa và xoang được tách ra thẳng thừng dọc theo vách ngăn ngang đến tận núm vú. Bằng cách này, lớp đuôi của các lỗ thông vào núm vú có thể được duy trì nguyên vẹn, hoàn toàn đảm bảo khả năng cho con bú sau mổ. Với tiêu bản giải phẫu về phía giữa và bên, các dây chằng dọc được bắt gặp.
Dây chằng bên có thể được giữ lại hoặc vứt bỏ tùy theo kích thước mong muốn của vú. thông thường nó sẽ được mổ cùng với một phần ba bên của vách ngăn ngang. Điều này sẽ để lại một số mô ở gốc của vách ngăn ngang để bảo tồn nhánh sâu của nhánh da bên chỗ dây thần kinh liên sườn thứ tư, chạy trong khoang sau tuyến vú từ bên vào giữa và đổi hướng after 3-5cm để kéo dài tới núm vú dọc theo vách sợi xơ. Trong bất kể trường hợp nào, toàn bộ lớp tuyến bề mặt, trên vách ngăn gồm đuôi spence có thể được loại bỏ không cảm giác mà không hề nguy hại đến nhánh thần kinh này, cho phép cắt bỏ toàn bộ mặt bên và điều này thường làm ngực rộng và vuông. Cuống giữa với cầu biểu bì khá di động được giữa lại cùng với các phần của dây chằng giữa.
Khi tách lớp tuyến phái đầu, cuối cùng thì phần cuống gồm vách ngăn sợi ngang, các lớp mạch máu thần kinh kèm theo và các phần của lớp tuyến đuôi. Phần cuống trung tâm này hợp nhất vào phần cuống giữa như một nguồn cung cấp máu thần kinh thứ hai, dọc theo dây chằng giữa bao gồm các nhánh đục lỗ mạnh từ các điểm nối của động mạch lồng ngực trong, phát sinh ở khoang liên sườn thưa hia và thứ ba, cùng với các dây thần kinh. Việc cắt bỏ các lớp tế bào tuyến phía đuôi hiếm khi cần thiết và cần được thực hiện cẩn thận để không làm tổn thương dây thần kinh chính và mạch máu đuôi, 2 cấu trúc này lại không phân định rõ ràng về phía tuyến giống như ở lớp mạch máu phía đầu.
Giai đoạn này của quy trình khá hữu ích khi phẫu thuật ở bên đối diện để đạt được sự đối xứng. Sự khác biệt về thể tích các vú có kích thước khác nhau chủ yếu là do lớp tế bào tuyến phía đầu loại bỏ hầu hết. Điều này cho phép loại bỏ chính khu vực có vẻ như phì đại và tích tụ mỡ thực sự. Độ dày của cuống, bao gồm cả lớp tuyến đuôi, sẽ bằng nhau ở cả hai bên. Do đó, vách ngăn ngang có thể được sử dụng như một dấu hiệu để đạt được sự cân xứng ngay cả ở ngực không đối xứng trước mổ. Để có được kích thước bằng nhau, không chỉ mỗi cuống thôi mà còn cả độ dày của lớp da che phủ, cần phải được kiểm tra thật đối xứng 2 bên.
Tạo hình
Sau khi cắt bỏ, khuôn ngực hình nón được tạo ra. Việc nối biểu bì phần trung gian, giữa cuống và lớp da này cùng với phần dây chằng giữa tạo nên một điểm tựa cho phép rìa phía bên cuống, bao gồm vách ngang đẻ xoay lên trên, theo nguyên lý trong kỹ thuật HallFindlay. Vì vậy, các đường khâu sửa chữa không còn quá quan trọng. Theo đó, ưu điểm của kỹ thuật là giữa phần trên của ngực được vẹn nguyên và chống lại trọng lực, có thể tạo thuận lợi cho nguồn cấp mạch máu thần kinh. Trong phương pháp này, cả vách ngang và dây chằng giữa làm nguồn cấp số lượng mạch ở dây gấp 2. Bằng cách xoay vách ngăn và phần dính của nó gắn vào lớp tuyến phía đuôi ở trên, thúc đẩy lớp này tạo tính toàn vẹn cho lớp phía đầu.
Sửa chữa lần cuối
Sau khi tạo hình nón vú, lớp da bì được sắp xếp lại. Đường hình bán nguyệt phẳng, bao gồm vị trí núm vú mới được sắp xếp xung quanh núm vú và hai điểm cuối của đường này được nối bằng một đường khâu. Theo cách này, phần da thừa được phân bổ ít nhiều đều nhau, một nửa xung quanh núm vú và một nửa đuôi của núm vú thành sẹo dọc. Ở giai đoạn này, việc cắt da cuối cùng được đưa đến hình dạng và kích thước cuối cùng của hình vú. thông thường, da được nối lại theo đường bán nguyệt phía trên vết khâu; đôi khi tất cả da xung quanh núm vú sẽ được duy trì để cung cấp đủ độ nhô. Trái ngược với phần đầu của vú, nơi tôi để lại một lượng da rộng rãi, tôi loại bỏ mọi phần da thừa ở đuôi của núm vú. Một lần nữa, tránh được nhiều áp lực sinh ra. Lớp da thừa phía đuôi mũi khâu có thể được áng tự do hoặc đảo ngược lại và ghim tạm phấn da thừa lại với nhau. Da thừa được cắt lại và được gói lại trong một bọc hai lớp, do đó làm giảm chiều dài của nó. Ngay sau khi các trụ giữa và trụ bên được nối với nhau, hình dạng cũng như các phần tương ứng sẽ phục hồi dần.
Khi cắt bỏ theo chiều dọc, vết cắt không được chạm đến đường nếp dưới vú. trong trường hợp có nhiều da thừa rõ rệt, phần đuôi của đường cắt luôn hướng theo một đường cong mặt bên, khoảng 2-3cm trên đường nếp này. Trong trường hợp như vậy, mép da phía đuôi giữa là lớn hơn phần mặt bên phải đầu và phải tập trung đều về bên ngắn hơn. Trường hợp cắt bỏ da mà đi qua cầu da trung gian, quá trình biểu mô hóa sâu được thực hiện. Một phần da thừa được tập trung xung quanh núm vú trong một lớp vỏ hai lớp, với một số mũi khâu Vicryl phân phối da như nhau. Việc đóng da được thực hiện với các mũi khâu đơn nút không thấm một phần trong da, khâu này tập hợp phần da dư thừa ở vùng ngoại biên. Ban đầu, có thể thấy một số nếp nhăn nhỏ dọc theo đường chỉ khâu; những thứ này sẽ biến mất sau vài tuần.
Tham khảo sách y học
Liên hệ tư vấn phẫu thuật thẩm mỹ tạo hình
* Số điện thoại: 0911413443/ 0967588668
* Facebook bác sĩ: Bác sĩ Hồ Cao Vũ/ Dr Hồ Cao Vũ
* Xem video thực tế tại: ĐÂY
* Hình ảnh thực tế ca phẫu thuật tại: https://tuvanthammytaohinh.vn/hinh-anh/
Bác sĩ Hồ Cao Vũ đã có hơn 20 năm chuyên bệnh lí lành tính và ung thư vú tại bệnh viện Chợ Rẫy, hơn 10 năm trong lĩnh vực thẩm mỹ và tạo hình sử dụng bằng dao Harmonic, dao Ligasure. Bs Vũ còn chuyên sửa các ca ngực hư, ngực lệch, ngực lộ túi, vỡ túi, bao xơ cấp độ 1 đến 4, tháo túi ngực… đã trải qua khóa đào tạo trực tiếp tại MD Aderson Cancer Center Hospital, Houston, Texas, USA tại Khoa phẫu thuật tạo hình Giáo sư David Chang là người hướng dẫn trực tiếp. Theo thông tin từ chính hãng Johnson & Johnson: “ThS. Bs. Hồ Cao Vũ là người đầu tiên và duy nhất tại Việt Nam hiện nay sử dụng Harmonic Scalpel trong phẫu thuật vòng 1, tạo hình thành bụng”.