Định dạng nếp mí mắt một cách rõ ràng và hoàn hảo là mục tiêu mà nhiều người tìm kiếm trong phẫu thuật thẩm mỹ. Việc có một nếp mí đẹp và sắc nét có thể tạo nên sự thay đổi đáng kể trong diện mạo và tự tin của bạn. Tuy nhiên, để đạt được kết quả như mong muốn, cần phải áp dụng các phương pháp phẫu thuật nếp mí phù hợp và chuyên nghiệp. Trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu về những phương pháp phổ biến để định dạng nếp mí mắt một cách rõ ràng hơn, giúp bạn hiểu rõ hơn về quá trình này và cách nó có thể tạo ra sự thay đổi đáng kể cho vẻ đẹp của bạn.
Định nghĩa một số khái niệm tạo thành nếp mí mắt rõ ràng
Ở mí mắt trên nhiều mỡ, khối lượng kết hợp của 3 thành phần là da (s), cơ vòng mi (m), và mỡ trước cân cơ nâng (F), có thể quá nặng để cho phức hợp sụn mi – cơ nâng mi ở sau nâng lên được và nó có thể làm biến mất nếp mí. Cuối cùng, điều này thậm chí có thể dẫn đến chứng sa mi mắt mắc phải của mí trên ở một độ tuổi sớm hơn bình thường. Dĩ nhiên, sự quá thừa của bất kỳ thành phần nào kể trên hoặc kết hợp các thành phần có thể dẫn đến sự vắng mặt của nếp mí. Mỡ trước cân cơ nâng (F) khỏe mạnh có thể hỗ trợ như là một lớp trượt, làm dễ dàng cho sự định dạng nếp mí, còn khi nó quá thừa thì lại gây trở ngại. (Khi F thừa đến một số lượng nào đó, nó có thể được xem như một yếu tố mẫu số, với một chức năng đảo ngược).
Một bệnh nhân bình thường với kích thước khe mi (palpebral fissure – ‘pf’) rộng về cả chiều ngang và chiều dọc sẽ có khuynh hướng có một phức hệ cơ nâng mi lớn, cơ rộng hơn và sức kéo thẳng đứng của cơ cũng mạnh hơn. Phẫu thuật viên định dạng nếp mí có thể phỏng đoán là độ rộng của cơ nâng mi lớn hơn sẽ nối vào một cung lồi dài hơn của sụn mi khi nó chạy hướng lên, và sự dính vào ở điểm trung tâm của nó dọc theo bờ sụn mi trên sẽ đi ngang ở một khoảng cách dài hơn (sức kéo lên thẳng đứng của mép mí trên)
Trong tập hợp những ảnh hưởng tiêu cực của các thông số này (mẫu số), chữ ‘s’ tương ứng với da mí mắt bị rớt xuống, da mí dày và thừa quá mức. Một vài cá nhân thậm chí còn biểu hiện da mí mắt căng, có thể quan sát được thông qua sự đề kháng của mô khi có dung dịch thuốc tê tại chỗ được tiêm vào da mí mắt của họ trước phẫu thuật. Nó cho thấy một sự tái hấp thu quá chậm của thuốc tê tiêm, cũng như sự nỗ lực lớn hơn mức cần thiết để tạo nếp của phẫu thuật định dạng nếp mí bất chấp những bước phụ thêm để tăng cường sự hình thành nếp mí. Bởi vậy da lỏng lẻo sẽ tăng thêm tải trọng, còn da chặt sẽ tăng thêm sự đề kháng.
Chữ ‘m’ tương ứng với khối thừa quá mức của cơ vòng mi, và sự mở rộng của lớp cơ vòng mi có nền ở trước sụn hoặc trước vách ngăn. Mỡ có thể cũng bện vào nhau trong những sợi cơ vòng mi.
Chữ ‘f’ đại diện cho mỡ nằm trong vùng trượt cái mà ở trạng thái tự nhiên gây trở ngại hơn là thuận lợi. Tình trạng lâm sàng này thường được quan sát thấy trong phẫu thuật ở những người mắt 1 mí, nơi mà thay vì nhìn thấy mỡ hình cầu, chúng ta lại thấy những bộ phận mỡ vô định sa xuống dưới, hoặc những cụm khảm của những giọt mỡ kém định hình mà không có ranh giới rõ ràng ở nơi mà vách ngăn nằm trước cân cơ nâng. Nó có thể xảy ra như vậy trong những ca phẫu thuật lần đầu; còn trong phẫu thuật mí mắt sửa lại, toàn bộ vùng trượt là một mảng sẹo chắc. Xác suất để có một nếp mí tự nhiên là hy vọng vào hàm đảo ngược của ‘f’ (tưởng tượng nó như một loại mỡ thừa có hại), hoặc tỷ lệ với 1/f. Việc định dạng nếp mí là dễ dàng hơn nếu mỡ (f) có hại này là tối thiểu hoặc không có.
Phương pháp định dạng nếp mí hiệu quả
Neo cao khi định dạng nếp mí
Cách đây không lâu, cách thích hợp cho các bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ và bác sĩ phẫu thuật mắt để thực hiện phẫu thuật định dạng nếp mí là loại bỏ nhiều da và mỡ nhất có thể, và áp dụng cách cố định nếp mí cao. Kết quả cho thấy là nếp mí nhìn rất rõ đoạn da trước sụn mi nằm dọc theo bờ mi, và lõm trải dài về phía đỉnh của ổ mắt. Nhìn mắt không mấy thiện cảm khi có sự giảm khối lượng mỡ liên quan đến tuổi ở phần trên của ổ mắt (cho dù mỡ bị co lại và di chuyển vào sâu và xuống dưới hơn). Một tác dụng phụ thường không được chú ý mà bác sĩ nhãn khoa gặp phải từ kỹ thuật này là cố định nếp mí cao, đó là bằng chứng tạo nên sụp mi sau đó (mí mắt trên xa xuống theo cố định cao trên cân cơ nâng mi). Do đó, theo kinh nghiệm:
Khâu tạo mí cao (khâu da) → có thể dẫn đến sụp mi sau đó.

Hãy nhớ rằng khi tôi nói neo cao, là cao hơn 1-2 mm so với mí chuẩn; với các tiêu chuẩn là nếp mí dọc theo bờ trên sụn mi. Đối với tôi cao hơn 1-2 mm so với bờ trên sụn mi là đủ khiến cho kết quả ít lý tưởng.
Khâu neo khi định dạng nếp mí tại một điểm gần hơn (gần hơn đến đỉnh ổ mắt) so với điểm chèn tự nhiên của nó là giống như làm giảm lực co lại cũng như độ dài hiệu quả của cơ nâng mi (khoảng 40 mm từ đỉnh ổ mắt tới nếp mí). Có sức mạnh hoặc chiều dài bị ảnh hưởng không? Hoặc cả hai?
Hiệu ứng Faden khi định dạng nếp mí
Để hiểu được điều này, các phẫu thuật viên định dạng nếp mí học cách khâu phía sau (Faden 1-3) khi cố gắng làm suy yếu hiệu quả của cơ thẳng trong trong phẫu thuật chỉnh lác trong đặc biệt là lác trong nặng bẩm sinh. Vị trí cố định phía sau thường được thực hiện kết hợp với làm co ngắn cơ chéo ngoài.
Ý tưởng là bằng cách di chuyển chỗ bám của cơ thẳng trong ra sau hơn và khâu vào củng mạc không khâu vào sụn mi (ví dụ: 3-5 mm sau), người ta có thể phóng đại thêm một ít hiệu ứng của quy trình phẫu thuật làm giảm chức năng cơ vận nhãn, đó là mục tiêu sửa lúc trong. Hơn nữa, vị trí của Faden là cố định mũi chỉ đơn ở sau hơn (có nghĩa là, đặt mũi khâu gần chỗ bám của nó trên nhãn cầu) mà không cần giải phóng chỗ bám của cơ thẳng trong. (Faden có nghĩa là một mẩu chỉ bằng tiếng Đức; ở đây nó có nghĩa là chỉ khâu.)
Lý thuyết trước kia đã cho rằng điều này là do mất vòng cung quay hiệu quả của nhãn cầu khi điểm tiếp xúc được chuyển ra sau (tương đối) dẫn đến giảm hiệu quả xoay, hoặc là kết quả quay của cơ ít hiệu quả hơn do giảm chiều dài của cơ, hoặc thông qua hiệu ứng dây thắt khi một phân giữa của cơ bị đính chặt vào nhãn cầu.
Bác sĩ phẫu thuật mắt hiểu rằng khi cố tình làm dài cơ nâng mi là một hình thức điều trị ở những bệnh nhân bị co rút mí mắt, đường đi của cơ nâng mi bị hạn chế và định dạng nếp mí ít rõ là vị trí bám của cơ nâng mi. Giải phóng hoàn toàn co kéo mí trên có thể phải ghép thêm chất liệu. Giải phóng cơ nâng mi sẽ dẫn đến sụp mi thứ phát, và giác mạc thường được bảo vệ tốt.

Clark và cộng sự, thông qua một số bài báo đã chứng minh rằng có thể có các yếu tố bổ sung khi nhãn cầu hoạt động, gồm hiệu quả xoay tối đa nơi nhãn cầu bị thắt chặt khi cơ thẳng trong hướng vào vỏ của cơ thẳng trước (gồm mỡ và tổ chức vách ngăn không đổi) tại chỗ mũi khâu nơi cơ bắt đầu chèn vào nhãn cầu, và cũng như hiệu ứng của cố định Faden mà không cần phải áp dụng bất kỳ khâu trên củng mạc nới cơ thẳng trong chèn vào. Clark quy định để làm giảm tác dụng giảm của Faden là thay đổi lực kéo quanh nhãn cầu hơn là làm giảm hiệu quả của cơ thẳng trong trên nhãn cầu. Mũi khâu bắt đầu thay đổi, trong khi sự thay đổi xảy ra trong các mô ở chỗ chèn vào của cơ thẳng trong (ở bên trên và dưới).
Điều này là thú vị vì nó cho thấy rằng ít nhất là phần bán tận của cơ như cơ thẳng trong, cố định mặt sau khâu bên dưới nó về phía củng mạc (mà tôi gọi là ‘endo-Faden’, hoặc cố định vào bên trong hoặc dưới), cũng như khâu cùng vị trí (cực) của cơ thẳng trong với các mô mềm xung quanh (vỏ ổ mắt và cơ chế ròng rọc), tôi sẽ gọi nó là ‘ecto- Faden’, được gắn liền với nhau hoặc lớp phủ bên trên), có thể mỗi tổ chức độc lập làm giảm lưới chức năng của cơ đó dọc theo trục hoạt động chính. vì thế:
Faden (trong hay ngoài) → có thể dẫn đến làm yếu cơ thẳng
Điều này trùng hợp với sự quan sát của người sụp mi thứ phát mà chúng ta thấy ở bệnh nhân (cho dù người châu Âu hay người châu Á) có nếp mí ở vị trí sinh lý cao hơn bình thường, cũng như ở những người đã dùng phương pháp khâu vùi với chỉ không tiêu mà chỉ khâu được bao quanh phức hợp cơ nâng mi -Müller qua phía sau trên cao. (‘Phạm vi tiếp cận cao’ có nghĩa là xa hơn bờ trên sụn mi). Điều này có khả năng là do sự giảm chức năng của cơ nâng mi, khi gắn kết cơ nâng mi vào một điểm gần hơn (cao hơn) so với thông thường dọc theo bờ trên sụn mi và da.