Túi ngực đã được sử dụng trong khoảng 4 thập kỷ cho cả mục đích tái tạo và thẩm mỹ. Vào năm 1963, chất lượng của túi ngực nhân tạo đã được cách mạng hóa nhờ sự ra đời của mô cấy đầy gel silicon. Kể từ đó, đã trải qua một quá trình thay đổi và cải tiến với một số loại thiết bị với nhiều biến thể và kiểu dáng trong mỗi loại.
Trên thực tế, trong ba thập kỷ qua, khoảng một triệu phụ nữ đã được cấy ghép ngực bằng silicon ở Hoa Kỳ. Tuy nhiên, vào năm 1992, FDA Hoa Kỳ đã cấm silicone trên thị trường, khiến cho việc cấy ghép túi nước biển là sản phẩm duy nhất thường có sẵn để thay thế cho đến nay. Các vật liệu độn khác đã được giới thiệu, nhưng chưa bao giờ tiến triển ngoài giai đoạn thử nghiệm ở Hoa Kỳ (ngược lại với Châu Âu). Sự phát triển của các loại túi ngực khác nhau theo thời gian, với những ưu điểm và nhược điểm của túi ngực được thảo luận, nhưng cũng có những tranh cãi về cấy ghép silicone ở Hoa Kỳ và mối liên quan nghi ngờ của chúng với các bệnh toàn thân.

Tại Hoa Kỳ, những phụ nữ tìm kiếm túi ngực để nâng, chỉnh sửa hoặc tái tạo vú có thể lựa chọn giữa túi ngực làm đầy nước muối và túi ngực tròn, dạng gel. Các loại túi độn ngực bằng gel có độ kết dính cao, ổn định về hình thức được bán trên thị trường ở các quốc gia khác và hiện đang được FDA Hoa Kỳ xem xét.
Túi ngực Allergan đã thực hiện các nghiên cứu lâm sàng để điều tra tính an toàn và hiệu quả của các thiết bị tròn và giải phẫu (Kiểu 410) để được chấp thuận tiếp thị tại Hoa Kỳ. Các biến chứng được báo cáo thường xuyên nhất là phẫu thuật lại, loại bỏ mô cấy bằng cách thay thế, sai vị trí túi ngực và co thắt bao xơ.
Nghiên cứu đang được tiến hành liên quan đến tính an toàn của túi độn ngực bằng silicon. Mặc dù có số lượng bệnh nhân được cấy ghép ngực theo sau các nghiên cứu lớn của Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (LPAS), cơ sở dữ liệu này vẫn chưa được phân tích hoặc báo cáo kỹ lưỡng.

Phương pháp: Đây là một nghiên cứu thuần tập, đa trung tâm. LPAS theo dõi tiền cứu các kết quả lâu dài liên quan đến cấy ghép và tác hại toàn thân đối với cấy ghép silicone / nước biển từ 2 nhà sản xuất (Allergan và Mentor) được đặt để nâng cấp / tái tạo chính / sửa đổi. Các tác hại toàn thân, tự làm hại và kết quả sinh sản được so sánh với dữ liệu chuẩn. Các biến chứng liên quan đến implant được phân tích theo thành phần implant và chỉ định phẫu thuật trong ngắn hạn và dài hạn.
Kết quả: Dữ liệu LPAS bao gồm 99.993 bệnh nhân, 56% mô cấy là silicone để nâng cấp chính. Giám sát hình ảnh cộng hưởng từ dài hạn dưới 5%. So với dữ liệu thông thường, cấy ghép silicone có liên quan đến tỷ lệ cao hơn của hội chứng Sjogren (Tỷ lệ mắc tiêu chuẩn hóa [SIR] 8.14), xơ cứng bì (SIR 7.00), viêm khớp dạng thấp (SIR5.96), thai chết lưu (SIR4.50) và u ác tính (SIR3) .71).
Một trường hợp BI-ALCL được báo cáo. Không có mối liên hệ nào với việc tự tử. Trong ngắn hạn, độ vỡ cao hơn đối với nước muối (2,5% so với 0,5%, P <0,001), và độ co cứng của nang cao hơn đối với silicone (5,0% so với 2,8%, P <0,001). Sau 7 năm, tỷ lệ tái thiết là 11,7% đối với lần gia tăng chính và 25% đối với lần tái tạo sơ cấp / sửa đổi. Co cứng dạng nang (III / IV) xảy ra ở 7,2% trường hợp tăng cường chính, 12,7% tái tạo chính và là lý do phổ biến nhất để mở lại giữa các lần tăng cường.
Kết luận:
Đây là một trong những nghiên cứu quan trọng nhất về kết quả sau phẫu thuật cấy ghép ngực bằng silicon. Trong quá trình nghiên cứu, đã có những dấu hiệu cho thấy việc cấy ghép silicon có thể liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc một số tác hại hiếm gặp. Tuy nhiên, để đưa ra những kết luận cụ thể và chi tiết, cần phải tiến hành phân tích thêm dữ liệu từ số lượng lớn bệnh nhân tham gia.
Thông tin về sự an toàn lâu dài và những kết quả liên quan đến việc cấy ghép này là một phần quan trọng trong quá trình tư vấn cho bệnh nhân và giúp bác sĩ phẫu thuật trong việc quyết định liệu cấy ghép ngực bằng silicon có phù hợp cho bệnh nhân hay không. Dữ liệu từ nghiên cứu này cung cấp một cơ sở thông tin quan trọng giúp bệnh nhân và bác sĩ đưa ra quyết định có sự hiểu biết và cân nhắc.
Trích nguồn tại ĐÂY
Liên hệ tư vấn phẫu thuật thẩm mỹ tạo hình
* Số điện thoại: 0911413443/ 0967588668
* Facebook bác sĩ: https://bit.ly/37M37se
* Xem video thực tế tại: ĐÂY
* Hình ảnh thực tế ca phẫu thuật tại: https://tuvanthammytaohinh.vn/hinh-anh/
Bác sĩ Hồ Cao Vũ đã có hơn 20 năm chuyên bệnh lí lành tính và ung thư vú tại bệnh viện Chợ Rẫy, hơn 10 năm trong lĩnh vực thẩm mỹ và tạo hình sử dụng bằng dao Harmonic, dao Ligasure. Bs Vũ còn chuyên sửa các ca ngực hư, ngực lệch, ngực lộ túi, vỡ túi, bao xơ cấp độ 1 đến 4, tháo túi ngực… đã trải qua khóa đào tạo trực tiếp tại MD Aderson Cancer Center Hospital, Houston, Texas, USA tại Khoa phẫu thuật tạo hình Giáo sư David Chang là người hướng dẫn trực tiếp. Theo thông tin từ chính hãng Johnson & Johnson: “ThS. Bs. Hồ Cao Vũ là người đầu tiên và duy nhất tại Việt Nam hiện nay sử dụng Harmonic Scalpel trong phẫu thuật vòng 1”.