Gần như mọi nghiên cứu được công bố về nâng ngực gồm các nghiên cứu của thị trường túi ngực lần đầu gồm các nghiên cứu thị trường túi ngực của các nhà sản xuất cho thấy các biến chứng trong phmaj vị 15-35% với các biến chứng phổ biến nhất là biến dạng căng bóng có thể nhìn thấy, gấp túi và rạng da, biến dạng quá di động. Các quy trình chính chỉnh sửa sẽ được trình bày cùng với một loạt các phương pháp được ghi lại để sửa chữa và chỉnh sửa những bệnh nhân phức tạp này. Ưu điểm và nhược điểm cũng được mô tả mỗi ứng dụng và kỹ thuật sửa chữa.
Biến chứng đặt túi, chỉnh sửa vú, biến dạng kéo căng, gấp rút và rạng da, co thắt bao xơ, biến nếp dạng nếp lằn vú, biến dạng bên ngoài, biến dạng phía trong, biến dạng 2 vú dính nhau, biến dạng tăng di động 2 vú.
Biến dạng kéo căng với nếp gấp túi và rạng da trong nâng ngực
Có một số biến chứng trong phẫu thuật và lần 2 vẫn còn tồn tại để có thể là động lực chính để chỉnh sửa tiếp. Chúng bao gồm: co kéo bao xơ, lệch vú, gấp túi và rạng da và biến dạng kéo căng của phần dưới của vú.
Rạch da bằng dao thường
Kế hoạch rạch da cho phẫu thuật nâng ngực chỉnh sửa lại vú cho các tình huống này phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như vị trí vết mổ ban đầu và liệu có biến chứng hoặc biến dạng thêm hay không, nhưng nói chung phương pháp ưu tiên mổ theo đường nếp lằn vú. Với biến dạng kéo căng kèm theo, thường thì tốt khi phục hồi da ở phần dưới dư thừa của vú để giúp khôi phục tính đối xứng cho bên đối diện và khôi phục núm vú tối ưu tỉ lệ của vú và có khoảng cách bằng nhau 2 bên từ núm vú đến nếp lằn vú (IMF). Vết rạch da tối thiểu dài 7 cm là điển hình để tạo điều kiện tiếp cận và thực hiện tốt kỹ thuật, đặc biệt nếu sử dụng tấm lót da nội bì.

Biến dạng kéo căng kéo căng kết quả xuất hiện “bottoming out” của vú được xác định bằng cách tăng khoảng cách từ núm vú trước phẫu thuật đến IMF (N-IMF) đến khoảng cách này sau phẫu thuật, với nếp lằn vú còn lại ở vị trí chính xác trước đó để từ thời điểm phẫu thuật lần đầu.
Phẫu thuật nâng ngực vị trí nếp lằn vú sai vị trí xảy ra khi túi bị rơi xuống dưới vị trí IMF trước đó (kể từ khi mổ lần đầu). Điều này cũng sẽ dẫn đến tăng khoảng cách N-INF mới; tuy nhiên, vết sẹo sẽ cưỡi lên ở phần dưới của vú nếu sử dụng vết mổ trước đây (xem phần IMF sai vụ trí).
Các kỹ thuật phẫu thuật để điều chỉnh cả ba biến chứng này. Bottoming out/ kéo căng, gấp túi/ gợn sóng và co thắt bao xơ – còn chứa nhiều kỹ thuật phẫu thuật tương tự. Khi tiếp cận bệnh nhân với các biến chứng này, điều quan trọng là phải làm nhiều nhất có thể bằng phẫu thuật để cải thiện kết quả và giảm nguy cơ tái phát hoặc sửa chữa chưa đủ. Do đó, việc thay đổi các mặt phẳng để tăng thêm độ phủ trên túi ngực, thay đổi túi nước biển bằng túi silicone và sử dụng các kỹ thuật chuẩn đều quan trọng. Chất liệu hỗ trợ phẫu thuật nâng ngực mới hoặc độn da nội bì nhân tạo thường hữu ích trong việc hỗ trợ các mô mềm vú như áo ngực bên trong, võng xuống hoặc dải xơ cũng như tạo hiệu ứng nút gạt trên bờ mặt túi để giảm khả năng nhìn thấy.
Sự khác biệt về kỹ thuật khi sửa chữa hoặc cải thiện những vấn đề này sẽ được đề cập cụ thể trong từng phần của chương này, nhưng vì các kỹ thuật tổng thể tương đương nhau nên chúng sẽ được trình bày cùng với các thông số được ghi nhận.
Sau khi xác định bản chất chính xác của biến dạng và các mối quan hệ chính này, việc lập kế hoạch đường mổ được thực hiện để tạo đường rạch cuối cùng trong IMF mới. Kích thước và hình dạng túi mới cũng có thể góp phần tạo nên vị trí IMF mới. Kích thước và hình dạng túi mới cũng có thể góp phần tạo nên vị trí IMF mới. Xác định những mối quan hệ của phạm vi kích thước túi và N-IMF lý tưởng.
Lên kế hoạch tạo một vết mổ 7 cm trong phẫu thuật nâng ngực, hoặc lớn hớn, sau đó được xác nhận trong lúc mổ với kéo căng da tối đa. Da thừa hoặc cắt bỏ da dư để phù hợp với khoảng cách N-IMF ở 2 bên nên được đánh dấu và bao gồm bờ vết mổ ban đầu. Đây là một điểm khác biệt giữa biến dạng kéo căng và biến dạng IMF. Nếu thấy có phần bị kéo căng, nên cắt bỏ thêm bờ da của vết mổ để cân bằng lại 2 vú và tạo ra “tay trong găng” phù hợp với lớp da bên ngoài.
Bóc tách ban đầu trong phẫu thuật nâng ngực
Dụng cụ
5 dụng cụ chuyên dụng được khuyến nghị dùng cho kỹ thuật này. Chúng gao gồm: retractor 2 đầu, dụng cụ đẩy túi, retractor không răng có ánh sáng và có đầu gắng hút khói, dao mổ điện đơn cực chuyển chế độ trên tay cầm và ánh sáng đền mổ mang trên đầu tốt nhất là đèn pha sợi quang.
Đánh dấu và điểm mốc
Đường rạch hình elip theo đường mổ trước, tại vị trí dự định trước của IMF hoặc vị trí dự định lý tưởng khác dựa trên túi mới theo hướng dẫn đo IMF.
Chiều dài vết mổ
Độ dài của vết mổ có phần phụ thuộc vào kiểu dáng và kích thước của túi. Tuy nhiên, đối với kỹ thuật chỉnh sửa này và đặc biệt khi sử dụng da nội bì nhân tạo như là một sự hỗ trợ, củng cố hoặc như một cái võng hoặc treo bên trong, kỹ thuật này có thể được ví như phẫu thuật thông qua “mail slot”. Phẫu trường nhìn thấy lớn hơn, kỹ thuật có thể được thực hiện dễ dàng và hiệu quả. Nhét túi mới, thay găng hoặc miếng dán bảo vệ da nên được xem xét để giảm nhiễm bẩn túi khi đi qua da và cải thiện khả năng đặt túi qua vết mổ ngắn hơn mà không bị nhiễm bẩn túi. Đây là một yêu cầu cho các túi nhám vì bề mặt kết cấu của túi có thể dễ dàng dính các chất gây ô nhiễm da và vi khuẩn.
Chi tiết về kỹ thuật
Đối với các quy trình xử lý co kéo bao xơ và nếp gấp túi/ rạng da , rạch da được thực hiện bằng dao mổ số 15 và thực hiện bóc tách ban đầu thông qua lớp dưới da bằng dao điện. Nếu gặp phải các mạch máu xiên ra da thì cầm đốt cẩn thận. Tiếp theo, đối với đặt túi dưới cơ trước đó, lấy bỏ túi ngực ra khỏi vú, bóc tách cắt bỏ thành trên của bao xơ. Chích thuốc tê pha loãng adrenalin 1:1000000 cũng có thể làm giảm chảy máu và giúp tạo thuận lợi cho việc cắt bỏ bao xơ. Bóc tách sau đó được bắt đầu theo hướng lên trên và đến bờ của cơ ngực lớn. Trong trường hợp co thắt bao xơ cấp hoặc đã calci hóa bao xơ, cắt bỏ tất cả các tổ chức bao xơ hoặc bao xơ bên dưới của cơ ngực lớn. Trong trường hợp gấp túi và không co thắt bao xơ, tốt nhất là giữ nguyên bao xơ để tạo thêm một lớp hỗ trợ và độ dày ở phía trước. Sau đó, thực hiện cắt rạch phân tâm của bao xơ để cho đối xứng 2 bên nếu cần thiết. Sau đó, đặt túi mới hoặc đặt túi thử có thể sử dụng trong khi một ADM và khung nâng được khâu vào với nhau với sự bảo vệ túi bằng dụng cụ đẩy túi chèn bên dưới. Tiếp túc, khâu ADM và khung đỡ tại vị trí IMF và hiệu ứng treo của nó hỗ trợ cho việc túi mới nằm ở vị trí mong muốn, làm giảm nếp gấp túi rõ rệt. Cả về mặt thực nghiệm và lâm sàng, bao xơ dường như không hình thành trên bề mặt sâu hoặc bên dưới ADM và do đó sự co thắt của bao xơ xung quanh bị ức chế. Hiện tại kỹ thuật của chúng tôi là khung nâng đỡ để hỗ trợ phần dưới của vú và gia cố phần dưới và ADM để điều trị co thắt bao xơ.
Biến dạng căng phần dưới vú
Xác nhận các dấu hiệu trước phẫu thuật nâng ngực, với bất kỳ vùng da dư thừa hoặc không đối xứng nào được lên kế hoạch cắt bỏ ở lại IMF mới. Thực hiện các vết rạch da bằng cách lấy bỏ lớp thượng bì da dư thừa ở phần dưới của vú. Một vết rạch da sau đó được thực hiện tại phần bên dưới – sau của vết mổ giữ lại thành phần đã lấy bỏ thượng bì ở trên. Lúc đầu, thực hiện mổ bóc tách qua lớp hạ bì với chế độ đốt của dao mổ điện. Đốt cầm máu tất cả các mạch máu gặp phải và kể cả các mạch xiên. Tiếp theo, nếu dùng thêm ADM, thì túi ngực phải lấy ra khỏi vú, sau đó tiếp tục cắt bóc tách lên trên theo hướng bán tận cơ ngực lớn, dọc theo bờ dưới cơ ngực lớn. Thực hiện cắt bao xơ sau đó trong khu vực của nếp lằn vú, ước tính số lượng bao xơ dư thừa sẽ cắt bỏ. Lúc này, ưu tiên phẫu thuật khung đỡ và ADM vào dọc theo bờ dưới cơ ngực lớn và trước của bề mặt bao xơ và cuối cùng là khâu tại khu vực của IMF. Lớp hạ bì đã mất lớp da bên ngoài có thể sử dụng dự phòng để hỗ trợ thêm cho khu vực IMF.
Cẩn thận
Điều rất phổ biến khi cố gắng giải quyết một biến chứng sau phẫu thuật nâng ngực và thực hiện chỉnh sửa vú để có khả năng tạo ra một tình trạng hoặc bất thường mới trong khi cố gắng sửa chữa hoặc cải thiện một vấn đề khác. Cẩn thận không bóc tách quá mức phái trong và phía ngoài của khoang túi sẽ tạo ra biến dạng 2 vú dính nhau hoặc rời xa nhau nhiều. Các kỹ thuật sửa lại chuẩn để xử lí gấp túi/ rạng da, biến dạng kéo căng phần dưới và co thắt bao xơ thì đều có tỉ lệ tái phát rất cao, do đó tăng cường các mô mềm với một khung nâng đỡ hoặc ADM hoặc đặt những chất liệu độn ở giữa như là một sự thay thế sẽ cung cấp giải pháp thay thế tốt nhất để giảm bớt chỉnh sửa về sau và giảm sự tái phát tiếp theo hoặc không hoàn chỉnh, sửa chữa chưa tối ưu.
Ưu điểm
Giữ cho túi ngực ở vị trí ban đầu càng lâu càng tốt rất thuận lợi cho việc bóc tách cắt bỏ bao xơ và xác định bờ ngực dưới cơ ngực lớn. Dùng dụng cụ đẩy ngực cũng đặc biệt hữu ích trong quá trình bóc tách ban đầu này. Ước lượng da và bao xơ dư thừa đôi khi rất khó khăn và có thể xác định bằng cách biết các mối quan hệ N-IMF lý tưởng với khối lượng đặt túi cụ thể. Các chất liệu da nhân tạo mới cung cấp một ý nghĩa bổ sung và củng cố thêm các mô mềm trong việc giảm thiểu biến dạng thêm, cũng như giảm co kéo bao xơ tái phát.
Liên hệ tư vấn phẫu thuật thẩm mỹ tạo hình
* Số điện thoại: 0911413443/ 0967588668
* Facebook bác sĩ: https://bit.ly/37M37se
* Xem video thực tế tại: ĐÂY
* Hình ảnh thực tế ca phẫu thuật tại: https://tuvanthammytaohinh.vn/hinh-anh/
Bác sĩ Hồ Cao Vũ đã có hơn 20 năm chuyên bệnh lí lành tính và ung thư vú tại bệnh viện Chợ Rẫy, hơn 10 năm trong lĩnh vực thẩm mỹ và tạo hình sử dụng bằng dao Harmonic. Bs Vũ còn chuyên sửa các ca ngực hư, ngực lệch, ngực lộ túi, vỡ túi, bao xơ cấp độ 1 đến 4… đã trải qua khóa đào tạo trực tiếp tại MD Aderson Cancer Center Hospital, Houston, Texas, USA tại Khoa phẫu thuật tạo hình Giáo sư David Chang là người hướng dẫn trực tiếp. Theo thông tin từ chính hãng Johnson & Johnson: “ThS. Bs. Hồ Cao Vũ là người đầu tiên và duy nhất tại Việt Nam hiện nay sử dụng Harmonic Scalpel trong phẫu thuật vòng 1”.