Phẫu thuật nâng ngực là gì và phương pháp nào an toàn
Nâng ngực là một loại phẫu thuật thẩm mỹ phổ biến sử dụng vật liệu cấy ghép là túi ngực hoặc cấy mỡ để tăng kích thước và hình dạng của bầu ngực. Phương pháp nâng ngực sử dụng túi độn đang rất phổ biến hiện nay.
Độ nhạy
Cảm giác của ngực sau khi thu nhỏ là mối quan tâm lớn. Kỹ thuật cuống nhỏ trên thường bị chỉ trích vì khả năng gây hại cho dây thần kinh của phức hợp núm vú – quầng vú. Trong một nghiên cứu tiền cứu chúng tôi cho thấy rằng sự phục hồi hoàn toàn của cảm giác vú đã được quan sát thấy ở những trường hợp phì đại vú vừa phải. Ở vú lớn, cảm giác áp lực hồi phục sau 1 năm, nhưng nhạy cảm với nhiệt độ và rung động giảm trên phức hợp núm vú – quầng vú.

Biến chứng
Trong suốt 25 năm qua, khi nguyên tắc cơ bản được tuân thủ, một số thay đổi kỹ thuật là cần thiết để nâng cao độ tin cậy của kỹ thuật trong một trung tâm đào tạo, giảm bớt đường cong học tập.
Những mục tiêu này đã đạt được bằng cách hạn chế việc hút mỡ của vú đến phần mở rộng ở nách, giảm bề mặt da bị phá hủy, sử dụng một phần da thừa ơ các cuống dài và thêm một đường cắt da ngang ở nếp dưới tuyến vú vào cuối cuộc phẫu thuật nếu cần thiết.
Khi chúng tôi so sánh kết quả của những bệnh nhân được phẫu thuật từ năm 1991 đến 1994 với những bệnh nhân được phẫu thuật từ năm 2008 đến năm 2014, chúng tôi nhận thấy sự giảm đáng kể của các biến chứng nhỏ và lớn.
Tỷ lệ huyết thanh là 1,8% trong các trường hợp muộn từ 27% trong các trường hợp sớm, tỷ lệ tụ máu 3,3% từ 12% và tỷ lệ nứt bề ngoài từ 46% đến dưới 15%. Các biến chứng chính như hoại tử tuyến chỉ được quan sát thấy 1,9% từ 22%.
Tuy nhiên, chúng tôi đã thêm vết sẹo ngang trong nếp gấp vú với 43% các trường hợp muộn so với 18% ở sớm.
Quy trình này được yêu cầu nhằm sự phá hủy da dọc theo vết sẹo dọc và vết khâu. Trong loạt bài của chúng tôi, các yếu tố nguy cơ chính gây biến chứng là chỉ số BMI và lượng cắt bỏ. Khi chỉ số BMI từ 15 đến 25, tỷ lệ biến chứng là 8% nhưng tăng lên 65% nếu chỉ số BMI trên 30UI.
Tương tự, 8% bệnh nhân có một số biến chứng khi cắt bỏ dưới 250g mỗi bên vú, nhưng hơn 50% các biến chứng quan sát thấy sau khi cắt bỏ 1000g mỗi vú.
Tỷ lệ hơn 10% đối với một thủ thuật được thực hiện thường xuyên tạo hình là không hợp lý. Theo kinh nghiệm của chúng tôi con số này có thể giảm đáng kể sau khi sửa đổi kỹ thuật ban đầu với tỷ lệ sử đổi 5% sắp tới từ 15,5% với kỹ thuật gốc tại trung tâm đào tạo của chúng tôi.
Thu nhỏ ngực là một thủ thuật hiệu quả đã được kiểm chứng với mức độ hài lòng của bệnh nhân.
Có thể không có một kỹ thuật duy nhất cho tất cả các ca thu nhỏ ngực.
Kỹ thuật chữ “T” đảo ngược dựa trên nhiều cuống vú khác nhau được chứng minh là an toàn và có thể tái tạo đối với hầu hết các loại vú.
Tuy nhiên, các kỹ thuật này đã phát triển trong suốt 30 năm qua với nỗ lực giảm sẹo.
Thay đổi chính nằm ở sự hiểu biết rằng da và nhu mô vú có thể được xử lý độc lập.
Hầu hết các kỹ thuật thẳng đứng sử dụng cuống cực đại bên trên hoặc bên như đã được Pitanguy và Skoog mô tả từ lâu.
Điều này có thể là một mối quan tâm đối với các bác sĩ phẫu thuật, những người đã quen với kỹ thuật cắt da chân kém hớn và có thể kéo dài đường cong học tập của họ.
Một mối quan tâm khác về kỹ thuật này đến từ mô tả của Lassus, người dựa trên một phương pháp tiếp cận mà không có các dấu hiệu trước phẫu thuật chính xác.
Vấn đề này được tránh khỏi bằng cách mô tả mẫu chuẩn của Lejour hoặc việc sử dụng mẫu không khôn ngoan được sửa đổi bởi Findlay Hall.
Liên quan đến phần còn lại của ca phẫu thuật, việc cắt bỏ tuyến khá dễ dàng vì nó theo dấu vết da dọc theo vết sẹo dọc và kéo dài theo chiều ngang và thấp hơn như trong phương pháp cắt bỏ mô hình khôn ngoan truyền thống mà không cần cắt da.
Việc khâu lại các trụ tuyến đã được chứng minh là một bước quan trọng giúp định hình lại tuyến và duy trì kết quả tốt lâu dài
Vấn đề duy nhất còn lại là rủi ro sửa đổi của đầu dưới của sẹo dọc. Điều này đã được một số tác giả báo cáo.
Theo kinh nghiệm của chúng tôi, điều này luôn có thể thực hiện được khi gây tê cục bộ như một thủ thuật cấp cứu. Tuy nhiên, để giảm nguy cơ này, ở vú lớn với nhiều da kém đàn hồi, chúng tôi hiện sửa chủ yếu là tai chó 43% bệnh nhân của chúng tôi, để lại một vết sẹo ngang nhỏ ở nếp gấp dưới lá mầm.
Vết sẹo này luôn ngắn hơn những gì sẽ có được sau khi khôn ngoan truyền thống cắt da mẫu.
Cuối cùng, nguy cơ biến chứng cao nhất là quan sát thấy ở vú lớn ở những bệnh nhân thừa cân. Điều này đã được báo cáo cách đây 40 năm bởi Strombeck, sử dụng kỹ thuật thu nhỏ ngực của ông.
Với thời gian và sự cải tiến liên tục để làm cho kỹ thuật trở nên dễ dàng, phẫu thuật trở nên dễ dàng, phẫu thuật tạo hình dọc đang phát triển như một kỹ thuật an toàn và hiệu quả có thể sử dụng ở hầu hết các loại vú như đã được tác giả khác khẳng định.
Như trong bất kỳ kỹ thuật thu nhỏ ngực nào, ngực lớn ở những bệnh nhân thừa cân là nhóm nguy cơ lớn nhất đối với thủ thuật này.
Quá trình theo dõi lâu dài khẳng định tính ổn định của kết quả thu được bằng kỹ thuật này, dựa vào định hình tuyến chứ không phải căng da.
Tham khảo sách y học
Liên hệ tư vấn phẫu thuật thẩm mỹ tạo hình
* Số điện thoại: 0911413443/ 0967588668
* Facebook bác sĩ: Bác sĩ Hồ Cao Vũ/ Dr Hồ Cao Vũ
* Xem video thực tế tại: ĐÂY
* Hình ảnh thực tế ca phẫu thuật tại: https://tuvanthammytaohinh.vn/hinh-anh/
Bác sĩ Hồ Cao Vũ đã có hơn 20 năm chuyên bệnh lí lành tính và ung thư vú tại bệnh viện Chợ Rẫy, hơn 10 năm trong lĩnh vực thẩm mỹ và tạo hình sử dụng bằng dao Harmonic, dao Ligasure. Bs Vũ còn chuyên sửa các ca ngực hư, ngực lệch, ngực lộ túi, vỡ túi, bao xơ cấp độ 1 đến 4, tháo túi ngực… đã trải qua khóa đào tạo trực tiếp tại MD Aderson Cancer Center Hospital, Houston, Texas, USA tại Khoa phẫu thuật tạo hình Giáo sư David Chang là người hướng dẫn trực tiếp. Theo thông tin từ chính hãng Johnson & Johnson: “ThS. Bs. Hồ Cao Vũ là người đầu tiên và duy nhất tại Việt Nam hiện nay sử dụng Harmonic Scalpel trong phẫu thuật vòng 1, tạo hình thành bụng”.