Phẫu thuật thu gọn ngực, một quá trình thẩm mỹ phổ biến, thường bắt đầu bằng việc xác định và vẽ đường mổ quanh vùng ngực. Vị trí của đường mổ, thường được gọi là đường quầng vú, là một phần quan trọng trong quá trình này và ảnh hưởng đến kết quả thẩm mỹ cuối cùng.
Kỹ thuật thu gọn ngực quanh vị trí đường mổ quầng vú
Nhiều bác sĩ lâm sàng cố gắng ngụy trang vết sẹo từ phẫu thuật thu nhỏ ở chỗ nối da – quầng vú. Những phẫu thuật thu gọn ngực quanh quầng vú, cho dù đồng tâm hay ngoại biên liên quan đến quầng vú, dẫn đến một nhúm da xung quanh chu vi của quầng vú mới, đường kính mà được cắt bớt để phù hợp với kích thước giảm của mô tuyến. Trong hầu hết các trường hợp, các bất thường có thể nhìn thấy được tạo ra bởi sự chùng da sẽ biến mất theo thời gian. Những khái niệm này có nguồn gốc từ phẫu thuật sa trễ và chúng dễ dàng chuyển sang thu gọn với việc cắt bỏ lượng đa dạng của nhu mô vú.
Felicio đã mô tả kinh nghiệm của mình với một kỹ thuật thu gọn ngực quanh quầng vú đồng tâm được chỉnh sửa ở 380 bệnh nhân. Tỷ lệ biến chứng trong chuỗi của ông là tương tự cho những người thực hiện các kỹ thuật thu gọn khác. Phương pháp này hoạt động tốt nhất ở những bệnh nhân cần cắt giảm từ nhỏ đến trung bình từ 210g đến 300g nhưng có lợi ích hạn chế ở những bệnh nhân bị sa trễ ngực nặng, những người có lượng da dư thừa hoặc lỏng lẻo hoặc cần giảm nhiều.
Goes kể lại sự phát triển phẫu thuật thu gọn ngực quanh quầng vú của anh ấy, được gọi là kỹ thuật da đôi. Phẫu thuật được thành lập trên nguyên tắc rằng một mình da sẽ không ngăn ngừa sa trễ sớm và phải được bổ sung bằng cách sử dụng polyglactin tan hoặc lưới hỗn hợp. Sự cần thiết phải hỗ trợ nhu mô cho kết quả tốt hơn và lâu dài hơn là phổ biến trong phẫu thuật được thực hiện bởi Goes.
Các phẫu thuật cơ bản liên quan đến việc bóc tách rộng dưới da của tuyến vú nâng vạt da tương đối mỏng. một thiết kế bảo tồn quầng vú được vẽ ra, cẩn thận không loại bỏ quá nhiều da cho nên ngăn chặn sự làm phẳng vú. Vùng da bị can thiệp bị đào sâu và tuyến vú bị cắt bỏ. Mô tuyến vú được hỗ trợ bởi mũi chỉ khâu treo trước cơ ngực và vạt da được khâu vào lớp màng cơ trước cơ ngực.
Trong trường hợp chỉ có vạt da, kiểu của Goes “sandwich da đôi” để tạo ra một vết sẹo sẽ hỗ trợ nhu mô trong thời gian dài. Lưới tan một phần được đặt theo chu vi trên đỉnh của lớp hạ bì để tạo ra một sandwich da – mesh – hạ bì và củng cố thêm hỗ trợ nhu mô lâu dài thông qua xơ hóa. Các tuyến và núm vú còn lại được hoán chuyển trên một cuống trung tâm.
Nân cắt bỏ tối đa 500g. Goes ghi lại kinh nghiệm 7 năm của ông với kỹ thuật này ở 254 bệnh nhân, hầu hết trong số họ được điều trị sa trễ hoặc phì đại nhẹ có hoặc không có sa trễ hoặc phì đại nhẹ có hoặc không có sa trễ. Tấm lưới không can thiệp vào chụp nhũ ảnh và kết quả hiển thị thì tuyệt vời.
Ưu điểm của phẫu thuật thu gọn ngực ở vị trí quầng vú bao gồm sẹo tối thiểu và thời gian mổ ngắn hơn. Các nhà phê bình cho rằng nó tạo ra một vú phẳng, không nhô, chủ yếu ở vùng núm – quầng vú. Một xu hướng rõ rệt đã được chứng minh cho quầng vú rộng ra đáng kể sau khi đóng căng ở vùng quầng vú, điều mà không thể tránh khỏi.
Cũng như các kỹ thuật trị sẹo ngắn khác, phẫu thuật ngực quầng vú có lẽ phù hợp nhất với những thu gọn nhỏ và trung bình với hạn chế lượng da cắt bỏ và phẫu thuật sa trễ. ở kinh nghiệm của chúng tôi, bất thường thứ phát vùng quầng vú tới sự đóng chuỗi có thể thường xuyên và thông dụng hơn những trường hợp thu gọn lớn.

Phẫu thuật ngực sẹo dọc
Trong 1964, Lassus bắt đầu sử dụng PT ngực sẹo dọc mà không có sẹo IMF cho tất cả thu gọn ngực. kỹ thuật được phân loại bởi sự cắt bỏ da, mỡ và tuyến; dịch chuyển vị trí của quầng vú trên 1 vạt phái trên; không bào sâu và 1 sẹo dọc.
Mặc dù Lassus thường sử dụng một cuống trên để bảo tồn lưu thông mạch máu NAC, nhưng anh ta thường xuyên sử dụng một cuốn bên hoặc trong nếu NAC yêu cầu nâng hơn 10cm. Lassus cảnh báo về việc đánh dấu núm vú quá cao và nhấn mạnh rằng góc thấp nhất của phần cắt bỏ dọc ít nhất 3 đến 4cm và tối đa 6 đến 7cm phía trên IMF để tránh di chuyển vết sẹo dọc xuống thành ngực. Với kỹ thuật được mô tả bởi Lassus, bệnh nhân được đặt ở tư thế ngồi trên bàn mổ và thể tích ngực và hình dạng được kiểm tra lập lại trong lúc phẫu thuật. Cắt bỏ phần dưới trong kiểu cắt bỏ en bloc của da, mỡ và mô tuyến. Phần trên chỉ có da và mô tuyến được cắt bỏ. Cắt bỏ lại và hình dạng ngực với mối chỉ được thực hiện nếu cần. nếu sẹo dọc quá dài tại chỗ cuối của ca mổ, 1 sự cắt bỏ 1 tam giác da nhỏ sẽ tạo nên 1 sẹo ngang rất ngắn sẽ chỉnh sửa vấn đề này. Lassus thường đợi 3-4 tháng trước khi thực hiện tái tạo.
Xem lại kinh nghiệm 30 năm của anh ta với kỹ thuật mổ ngực sẹo dọc với 710 bệnh nhân, Lassus báo cáo không có trường hợp hoại tử khi mà núm vú chuyển vị không nhiều hơn 9cm. Sự ổn định lâu dài của kết quả phẫu thuật được cho là cắt bỏ thêm dọc của nhu mô vú, đồng thời loại bỏ thể tích sa trễ và tăng độ nhô. Điều này trái ngược hoàn toàn với cắt cụt ngang, cái mà tạo ra 1 vú phẳng. Biến chứng chính liên quan đến thủ thuật sẹo: 20 vết sẹo phì đại được phát triển trong số các bệnh nhân do Lassus trình bày và bốn trong số đó là nghiêm trọng, làm biến dạng vú và làm mất kết quả thẩm mỹ. Tác giả không bình luận về độ nhạy núm vú sau phẫu thuật.
Phẫu thuật nâng ngực đường dọc được trình bày bởi Lejour và Abboud là một sửa đổi của kỹ thuật được trình bày bởi Lassus liên quan đến việc bóc tách vùng da rộng và thường kết hợp với hút mỡ.
Khi xem xét kết quả của cô ấy trong 100 bệnh nhân, Lejour đã mô tả việc bóc tách rộng của cực dưới để cho phép da chùng lại dọc theo đường đóng dọc. Sau khi cắt bỏ mô tuyến phía dưới, các trụ vú ở giữa và bên được đóng lại bằng chỉ khâu bên trong. Đây là cấu trúc hỗ trợ nhu mô mà Lejour đề nghị sẽ dẫn đến ổn định và lâu dài với độ nhô tương xứng. Da dư thì sẽ kết hợp trong những nếp nhăn giữa các mối chỉ và cái sẹo duy nhất được giữa ngắn nhất. Hút mỡ hỗ trợ làm giảm thể tích vú và tạo điều kiện cho sự chuyển vị của cuống da – nhu mô phía trên. Như với kỹ thuật được trình bày bởi Lassus, kết quả sau phẫu thuật ban đầu khá ổn với sự đầy đặn của cực trên mà đặt cực dưới trong 1 hình dạng cuối cùng.
Lejour đã xem xét tỷ lệ biến hcungws ở một loạt 250 bệnh nhân liên tiếp đã trải qua phẫu thuật thu nhỏ ngực bằng kỹ thuật cắt bỏ vú dọc từ năm 1990 đến năm 1998. Tương đối ít biến chứng, tụ máu là một trong những biến chứng phổ biến nhất. Chậm lành vết thương được quan sát ở 5,4% và liên quan trực tiếp đến kích thước và hàm lượng chất béo của vú. Tác giả đề xuất một phẫu thuật đơn giản hơn cho bệnh nhân béo phì- hút mỡ bằng cách chỉ giảm da thừa hoặc mảnh ghép núm vú tự do.
Một số tác giả đã mô tả các biến thể của phẫu thuật ngực dọc Lejour. Pickford và Boorman đếm lại kinh nghiệm của họ với thu gọn ngực bằng phẫu thuật cắt bỏ vú dọc ở 25 bệnh nhân. Mức giảm trung bình 624g mỗi ngực. Thời gian theo dõi trung bình là 12 tháng. Biến chứng nhỏ xảy ra ở 40% bệnh nhân và bao gồm chậm lành vết thương, hoại tử mỡ và nhiễm trùng vết thương. Trong một nhóm bệnh nhân tương tự được điều trị với thu gọn cuống dưới, tỷ lệ biến chứng nhỏ là 41%. Phẫu thuật phục hồi cho nếp dưới vú liên tục là cần thiết trong 20% trường hợp. Cảm giác của NAC được bảo tồn không tốt ở hầu hết bệnh nhân. Đặc điểm thuận lợi của kỹ thuật là không hoại tử da hoặc núm vú, khả năng áp dụng cho mọi mức độ phì đại tuyến vú, kết quả thẩm mỹ rất tốt và sự hài lòng của bệnh nhân cao.
Tapia et al đã trình bày một báo cáo về 54 trường hợp thu gọn ngực/sa trễ đường dọc. Cắt bỏ trung bình là 421g mỗi vú. Các biến chứng xảy ra trong 10% các trường hợp vàng được coi là nhỏ: chảy máu, tụ máu, áp xe, hở vết thương và núm vú bị chèn ép. Không có trường hợp hoại tử NAC. Một dốc đường cong để đánh dấu trước phẫu thuật đã được ghi nhận, với một tỷ lệ đối xứng 21%. Nguyên nhân rất có thể của các thủ thuật chỉnh sửa thứ cấp là xu hướng nếp gấp da hình thành dọc theo vết sẹo dọc. Vết sẹo và bất kỳ nếp gấp da và đường nhăn được cải thiện đáng kể theo thời gian ở những bệnh nhân dưới 45 tuổi. Các kết quả thuận lợi nhất thu được trong các trường hợp sa trễ nặng và phì đại trung bình tới nặng.
Asplund và Davies đã báo cáo một chỉnh sửa của phẫu thuật ngực đường dọc mà núm vú được hoán đổi trên một vạt trong để thu gọn trung bình và trên một cuống nhu mô để giảm nhỏ hơn. Lý do là việc hoán đổi núm vú trên các cuống này sẽ giảm thiểu lực căng quanh quầng vú và dẫn đến một vết sẹo có thể chấp nhận hơn về mặt thẩm mỹ.
Hall-Findlay đã báo cáo một phẫu thuật thu gọn ngực đường dọc đơn giản dựa trên kỹ thuật Lejour. Mục tiêu của tác giả là đường cong đáng kể với quy trình và làm cho nó hiệu quả hơn cho việc thu gọn vú lớn. Các sửa đổi bao gồm một cuống da tuyến trong và ngoài, không bóc tách da, hiếm hút mỡ và không khâu màng cơ ngực.
Trong cuộc thảo luận tiếp theo, Hall-Findlay đã báo cáo sở thích của cô đối với một cuốn bên trong vì nó giúp cải thiện cảm giác và tạo điều kiện cho việc cắt bỏ tuyến nhiều bên ngoài hơn 1 trong những vùng nặng nhất của ngực. Trụ ở bên trong và ngoài thì được đóng lại ở bên dưới theo hình nón của ngực và da được phủ lại dựa trên sự tái cấu trúc mô tuyến hơn là đặt nằm trên sự căng kéo của da để hỗ trợ tuyến. Hall-Findlay tín nhiệm sự hỗ trợ nhu mô cho kết quả lâu dài hơn. Kết quả trong 400 bộ ngực mức thu gọn là 525g mỗi bên là rất tuyệt vời về hình dạng và độ nhô và cải thiện lâu dài.
Các nghiên cứu khác đã xác nhận tỷ lệ biến chứng sau phẫu thuật tương tự và sự hài lòng giữa kiểu Wise và kỹ thuật sẹo dọc, nhưng phẫu thuật để phục hồi thì thông thường hơn ở kỹ thuật sẹo dọc. Trong góc nhìn của 1 phẫu thuật viên riêng lẻ, những thử nghiệm mà so sánh kiểu Wise với gọn sẹo dọc, sự hài lòng của bệnh nhân với sẹo sau mổ và kết quả thẩm mỹ toàn bộ thì cao hơn đáng kể với kỹ thuật mổ ngực sẹo dọ với 11% yêu cầu chỉnh sửa sau đó, so sánh với 0% ở nhóm kiểu Wise. Lưu ý, Akyurek trình bày kinh nghiệm với sự sử dụng hút mỡ để làm viền phần mô tị IMF, do đó giảm tỷ lệ phẫu thuật phục hồi từ 22% xuống 5%.
Tham khảo sách y học
Liên hệ tư vấn phẫu thuật thẩm mỹ tạo hình
* Số điện thoại: 0911413443/ 0967588668
* Facebook bác sĩ: Bác sĩ Hồ Cao Vũ/ Dr Hồ Cao Vũ
* Xem video thực tế tại: ĐÂY
* Hình ảnh thực tế ca phẫu thuật tại: https://tuvanthammytaohinh.vn/hinh-anh/
Bác sĩ Hồ Cao Vũ đã có hơn 20 năm chuyên bệnh lí lành tính và ung thư vú tại bệnh viện Chợ Rẫy, hơn 10 năm trong lĩnh vực thẩm mỹ và tạo hình sử dụng bằng dao Harmonic. Bs Vũ còn chuyên sửa các ca ngực hư, ngực lệch, ngực lộ túi, vỡ túi, bao xơ cấp độ 1 đến 4… đã trải qua khóa đào tạo trực tiếp tại MD Aderson Cancer Center Hospital, Houston, Texas, USA tại Khoa phẫu thuật tạo hình Giáo sư David Chang là người hướng dẫn trực tiếp. Theo thông tin từ chính hãng Johnson & Johnson: “ThS. Bs. Hồ Cao Vũ là người đầu tiên và duy nhất tại Việt Nam hiện nay sử dụng Harmonic Scalpel trong phẫu thuật vòng 1”.