Phẫu thuật nâng mũi là một phẫu thuật phức tạp, đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ càng từ cả phía bệnh nhân và bác sĩ.
Hướng dẫn và dùng thuốc sau phẫu thuật nâng mũi
Thuốc sau phẫu thuật bao gồm kháng sinh và thuốc giảm đau. Tùy thuộc vào trường hợp bệnh nhân có thể dùng thêm thuốc chống viêm, tranzamine và montelukast.
Liệu có cần dùng kháng sinh dự phòng sau phẫu thuật hay không và dùng trong bao lâu thì vẫn còn tranh luận. Một số tác giả đã báo cáo là dùng một liều kháng sinh duy nhất trước phẫu thuật là đủ và điều trị dự phòng kéo dài là không tốt. Tác giả cho rằng kháng sinh sau phẫu thuật có ý nghĩa trong phẫu thuật nâng mũi ở người châu Á nơi phẫu thuật nằm trên vết thương nhiễm bẩn sạch sẽ và thường xuyên phải sử dụng mô cấy ghép. Thông thường tác giả đã kê đơn thêm ciprofloxacin uống 3- 5 ngày sau phẫu thuật.
Không có gì lạ khi bệnh nhân bị buồn nôn sau phẫu thuật vì tác dụng phụ của gây mê cũng như tác dụng phụ khi bệnh nhân nuốt mẫu của họt. Buồn nôn có thể làm tăng huyết áp, có thể gây chảy máu chậm ở mũi và tăng phù nề. Bởi vì điều này bệnh nhân nặng cần thường khiếu nại liên bị buồn nôn. Sau khi chắc chắn rằng bệnh nhân buồn nôn cần được truyền dịch nước đầy đủ có thể dùng thêm meto- clopramide 10mg bằng đường tĩnh mạch. Một cơn buồn nôn và nôn nghiêm trọng hơn có thể kiểm soát bằng tiêm ondansetron qua đường tĩnh mạch đó là một chất đối kháng thụ thể serotonin 5-HT3. Thuốc chống nôn có thể chỉ định tùy theo khả năng của bệnh nhân dùng thuốc uống.

Không phải lúc nào cũng kê đơn uống tranzamine. Tuy nhiên, bệnh nhân có nguy cơ chảy máu sau phẫu thuật cao hơn có thể dùng liều tới 3g mỗi ngày trong 2-5 ngày.
Trong trường hợp nghiêm trọng bị phù nề sau phẫu thuật trong vài ngày đầu. tiêm dexamethasone IV hoặc IM có thể hữu ích trong việc giảm phù nề. Uống pred- nizolon liều ngắn cũng cho là có hiệu quả trong giảm phù nề.
Chất ức chế leukotriene, montelukast, có thể được chỉ định để ngăn ngừa xơ hóa và co rút mũi sau khi tạo hình đầu mũi ở bệnh nhân có da và mô mềm dày và bệnh nhân có nhiều mô sẹo hoặc mũi bị co ngắn. Liều dùng cho montelukast là 10 mg mỗi ngày trong 2 -> 3 tháng.
Các cytokine leukotriene gây viêm sẽ gây ra viêm và co thắt các tế bào cơ trơn, và làm tăng bạch cầu đa nhân trung tính và dòng tế bào lympho bằng cách thúc đẩy tăng tính thẩm thấu thành mạch. Được biết, cơ chế gây viêm này là rất quan trọng trong bệnh lý của bệnh hen suyễn và co thắt bao xơ. Việc sử dụng montelukast để giảm thiểu có thắt bao xơ đã được báo cáo rộng rãi trong các tài liệu nàng vú và được coi là một loại thuốc thường quy để nâng vú bằng cây ghép. Dùng montelukast sau khi tạo hình mũi thì chưa được báo cáo rộng rãi nhưng tác giả cảm thấy rằng cần thiết cho mô sẹo và phòng ngừa co thắt bao xơ gây co kéo mũi phẫu thuật tạo hình mũi ở những bệnh nhân có da đầu mũi dày và phẫu thuật sửa lại mũi do co kéo bao xơ. Có thể có tác dụng phụ như đau đầu họ, đau bụng ăn khó tiêu tăng men gan, viêm gan.
Sử dụng kem bôi vitamin K tại chỗ có thể làm giảm mức độ nghiêm trọng các vết bầm tím, đặc biệt là trong những ngày đầu sau phẫu thuật.
Phù nề có xu hướng tăng trong 2 ngày sau phẫu thuật. Để giảm thiểu điều này bệnh nhân nên được hướng dẫn áp dụng chườm lạnh vào mắt và vùng má và nằm đầu cao trong 1 tuần. Khoảng 80% phù nề đã giảm dần sau 2 tuần và khoảng 5% phù nề sẽ còn duy trì sau 2 tháng. Phần còn lại của phù nề, sưng sẽ mất hoàn toàn 6-12 tháng.
Chảy máu trong phẫu thuật và phù nề nhiều hơn ở những bệnh nhân người châu Á có da dày hơn so với bệnh nhân da trắng có da mỏng hơn. Phù nề có thể gây ra xơ hóa và có xu hướng làm xấu đi kết quả phẫu thuật. Do đó, phẫu thuật viên phải nỗ lực phối hợp để giảm thiểu các yếu tố gây phù nề, trong khi tối đa hóa việc sử dụng tất cả các phương tiện có sẵn để giảm phù nề đang diễn ra trong giai đoạn hậu phẫu. Nếu phù mũi nghiêm trọng, bệnh nhân cần được hướng dẫn áp dụng băng ép vào đầu mũi và giữ băng ép cho mũi trong 2 tháng sau phẫu thuật. Tiêm triamcinolone vào chóp mũi cũng có thể hữu ích trong việc giảm thiếu phù nề ở khu vực này. Tiềm triamcinolone ở vùng phù nề gây ra tình trạng phình ra sau 1-2 tuần (0,1 ->0,3 cc mỗi lần tiêm với nòng độ 10 mg/mL). Thực hiện tiềm ở trong mặt phẳng dưới da và không nên tiêm trong lớp da cũng như tiền trong sụn.
Cho phép đi bộ nhẹ nhàng vào 2 ngày sau khi phẫu thuật. Tuy nhiên nên hướng dẫn bệnh nhân tránh chạy bộ hoặc tham gia vào hoạt động gắng sức trong thắng đầu tiên sau phẫu thuật. Điều này là để giảm thiểu nguy cơ phù nề do tập thể dục ở mũi. Ngoài ra bệnh nhân nên hiểu rằng đi du lịch đến những vùng khí hậu nóng hoặc sử dụng phòng tắm hơi nóng có thể làm tăng phù nề, và nên tránh những hoạt động như vậy trong khoảng một tháng. Phải thận trọng tương tự để áp dụng cho chế độ ăn mặn và rượu và thuốc lá. Bệnh nhân có thể đeo kính trong khi đeo nẹp trên sống mũi nhưng nên dùng kính áp tròng trong một tháng sau khi không sử dụng nẹp cổ định mũi.
Bệnh nhân nên tránh ánh sáng mặt trời mạnh cho đến khi vết bầm đã giảm và bôi kem chống nắng cho các hoạt động ngoài trời.
Băng cố định khi nâng mũi
Băng cố định mũi bên ngoài
Để giảm thiểu phù nề và chảy máu sau phẫu thuật và để ổn định chất liệu cây ghép trong mũi và khung sụn áp dụng băng giấy hoặc Steri-Strips trên mô mềm của sống mũi và xung quanh chóp mũi. Các dải băng được áp dụng đầu tiên trong khu vực trên đỉnh mũi và sau đó vào gốc mũi và phần còn lại là sống mũi. Nếu đầu mũi đòi hỏi cần phải cố định làm điểm tựa cố định, bằng Joseph là thích hợp trong việc ổn định đầu mũi. Áp dụng nẹp nhựa dẻo để làm giảm khối máu tụ và phù nề và bảo vệ các đoạn xương.
Sau phẫu thuật cắt xương. Nẹp nên duy trì trong 5 – 7 ngày. Không nên nẹp quá chặc, có thể gây ra hoại tử hoặc tổn thương biểu mô ở da trên đỉnh mũi.
Khi muốn loại bỏ nẹp và băng giấy thì dùng một stylet cùn chèn vào giữa da và băng. Di chuyển đầu stylet từ bên này sang bên kia một cách nhẹ nhàng để không làm phân tách da ra khỏi khuôn nền bên dưới.

Cố định bên trong mũi
Khi có thủ thuật tạo hình xương mũi thì cần phải cố định bằng băng hay nẹp bên trong mũi phẫu thuật vách ngăn, lấy sụn vách ngăn và phẫu thuật cuống mũi. Cách để phòng ngừa đơn giản tụ máu sau khi lấy sụn vách ngăn, có thể khẩu đủ mũi khẩu vào niêm mạc vách ngăn, đặc biệt là nếu chảy máu không nhiều. Có thể thực hiện khẩu liên tục với 1-2 vòng chữ U, sử dụng chỉ tiêu để khâu.
Đối với các trường hợp sau đây nền băng cố định hay nẹp cố định bên trong mũi:
- Khả năng chảy máu vùng vách ngăn
- Chỉnh sửa lệch vách ngăn hoặc tạo hình mở rộng vách ngăn
- Sau phẫu thuật cuống mũi
- Cần thiết phải nâng đỡ xương mũi từ trong khoang mũi
Băng cố định hay nẹp cố định bên trong mũi nhằm các mục đích sau:
- Để ngăn ngừa tụ máu vùng vách ngăn và giảm phù nề vùng vách ngăn 2. Duy trì vách ngăn thẳng bằng phẫu thuật vách ngăn ở vị trí đường giữa 3. Đề nâng đỡ xương mũi
- Để giảm thiểu các lớp vảy trên bề mặt của cuống mũi sau khi phẫu thuật cuống mũi
- Để phòng ngừa dính vách ngăn và cuống mũi
Băng cố định được thực hiện phổ biến nhất bằng Merocel®. Trong số các loại khác nhau, người ta có thể sử dụng băng sao cho không khí có thể đi qua. Băng cố định sẽ tháo bỏ sau bỏ sau 2 ngày. Tuy nhiên, băng cố định có thể gây khó chịu do tắc nghẽn đường thông khí mũi, và nẹp cố định đã trở nên thích hợp hơn so với băng cố định bên trong mũi là vì lý do này.
Nẹp cố định bên trong mũi là một cặp nẹp silicon mềm bôi trơn bằng thuốc mỡ kháng sinh và đặt bên cạnh mỗi bên của niêm mạc vách ngăn. Sử dụng một hoặc hai mũi khâu đệm xuyên suốt để cố định lỏng lẻo các thanh nẹp silicon với nhau (Hình 3.12). Tùy thuộc vào loại, nẹp được loại bỏ trong khoảng từ 2- 7 ngày sau khi phẫu thuật. Nếu yêu cầu để nẹp trong thời gian dài hơn, nên theo dõi bệnh nhân cần thận hơn hơn để tránh sự hình thành của lớp vảy và chất nhầy Vi khuẩn Streptococcus và Staphylococcus là một hệ thực vật bình thường trong khoang mũi nhưng dị vật ngoài cơ thể có thể cho phép các sinh vật này nhân lên không kiểm soát trong khoang mũi và có nguy cơ mắc hội chứng sốc do nhiễm độc. Khi băng cố định hay nẹp cố định bên trong mùi nên dùng kháng sinh cho bệnh nhân để ý các dấu hiệu và triệu chứng như sốt, chóng mặt, nhức đầu, nôn mửa, tiêu chảy và phát ban.
Sau phẫu thuật vách ngăn và phẫu thuật cuống mũi, rách niêm mạc vách ngăn có thể làm tăng nguy cơ làm dính giữa vách ngăn và cuống mũi. Khi có sự xé rách như vậy, dùng tấm silicon mỏng đặt giữa các bề mặt bên đối diện. Để tâm silicone nguyên tại chỗ trong 2 – 3 tuần cho đến khi niêm mạc lành lại. Cắt bỏ chỉ khâu khoảng 10 ngày và thay đổi nẹp thường xuyên sau đó để ngăn ngừa nhiễm trùng
Tham khảo sách y học
Liên hệ tư vấn phẫu thuật thẩm mỹ tạo hình
* Số điện thoại: 0911413443/ 0967588668
* Facebook bác sĩ: Hồ Cao Vũ
* Xem video thực tế tại: ĐÂY
* Hình ảnh thực tế ca phẫu thuật tại: https://tuvanthammytaohinh.vn/hinh-anh/
Bác sĩ Hồ Cao Vũ đã có hơn 20 năm chuyên bệnh lí lành tính và ung thư vú tại bệnh viện Chợ Rẫy, hơn 10 năm trong lĩnh vực thẩm mỹ và tạo hình sử dụng bằng dao Harmonic, dao Ligasure. Bs Vũ còn chuyên sửa các ca ngực hư, ngực lệch, ngực lộ túi, vỡ túi, bao xơ cấp độ 1 đến 4, tháo túi ngực… đã trải qua khóa đào tạo trực tiếp tại MD Aderson Cancer Center Hospital, Houston, Texas, USA tại Khoa phẫu thuật tạo hình Giáo sư David Chang là người hướng dẫn trực tiếp. Theo thông tin từ chính hãng Johnson & Johnson: “ThS. Bs. Hồ Cao Vũ là người đầu tiên và duy nhất tại Việt Nam hiện nay sử dụng Harmonic Scalpel trong phẫu thuật nâng ngực.